Phương pháp dùng thiên can địa chi để tính thời gian là phối hợp thiên can địa chi với nhau tạo nên sáu mươi hoa giáp.
Pháp này là phối hợp một thiên can với một địa chi, như Giáp với Tý, Kỷ với Sửu, Bính với Dần. Khi hoàn thành ghép Quý với Dậu, liền ghép Giáp với Mậu, Ất ghép với Hợi vừa tròn mười hai năm, chúng ta dùng nó để đặt tên cho năm, từ nam Giáp Tý đến năm Ất Hợi có mười hai năm.
Mười hai năm đó bắt đầu từ thiên can Giáp, gọi là vận Giáp Tý.
Vận Giáp Tý đầu tiên thuộc ngũ hành Thủy, vì trong Hà đồ Lạc thư số 1 thuộc Thủy, do vậy liệt Giáp Tý vào Ngũ hành Thủy.
Sau khi kết thúc vận Giáp Tý tại Ất Hợi thì lại bắt đầu ghép từ Bính Tý, rồi Đinh Sửu. Mười hai con giáp này thuộc Hỏa, gọi là vận Bính Tý.
HÌNH ẢNH MINH HỌA
Tiếp đến là mười hai năm vận Mậu Tý, Ngũ hành thuộc Mộc.
Rồi đến mười hai năm Nhậm Tý thuộc Mộc.
Năm vận nói trên được gọi là Ngũ Tý vận. Ngũ Tý vận này kết thúc lại đến Ngũ Tý vận khác bắt đầu, cũng tức là hoàn chỉnh sáu mươi hoa giáp bắt đầu từ Giáp Tý.
Trong cuốn “Lịch vạn niên” có ghi chép về sáu mươi con giáp này. Các bạn có thể tra cứu được việc ghép thiên can địa chi này, không cần phải tốn thời gian tự ghép, tự tính toán.
Năm loại Ngũ hành trên gọi là Ngũ hành thế vận thời gian. Tức là trong mười hai năm sẽ sinh ra một vận khí lấy một loại Ngũ hành làm chủ.